Thứ hai, 00/00/2023
°

Kiến nghị của cử tri thành phố Hồ Chí Minh

Ngày 23/09/2020 - 15:17:00 | 97 lượt xem
Xem cỡ chữ
Tương phản chữ
Đọc bài viết
Từ viết tắt

1. Nội dung kiến nghị (số 24 tại văn bản số 6531/VPCP-QHĐP): Về việc thực hiện chính sách hỗ trợ doanh nghiệp do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 thông qua hình thức giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, cử tri cho rằng có tới 1/3 số doanh nghiệp ngừng hoạt động do dịch bệnh và rất nhiều doanh nghiệp không có doanh thu, nếu áp dụng việc giảm thuế cho doanh nghiệp không phát sinh doanh thu thì chính sách này chưa mang lại hiệu quả. Bên cạnh đó, quy định về tiêu chí để doanh nghiệp được giảm thuế thu nhập doanh nghiệp khi doanh thu không quá 50 tỷ đồng là chưa hợp lý, vì có nhiều doanh nghiệp có doanh thu trên 50 tỷ đồng nhưng lợi nhuận rất thấp và gặp nhiều khó khăn, nếu áp dụng quy định này thì các đối tượng thực sự khó khăn trên sẽ không được hỗ trợ. Do đó, cử tri kiến nghị, bên cạnh việc giảm thuế thu nhập doanh nghiệp thì cần có các giải pháp phù hợp khác có tác dụng lớn và trực tiếp để giúp doanh nghiệp hồi phục sản xuất kinh doanh.

Trả lời:

(1) Trước tình hình ảnh hưởng của dịch bệnh, để hỗ trợ nền kinh tế và chia sẻ gánh nặng và khó khăn với người dân và doanh nghiệp, ngày 04 tháng 03 năm 2020, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 11/CT-TTg chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương thực hiện ngay 07 nhóm nhiệm vụ, giải pháp cụ thể nhằm tháo gỡ khó khăn, tạo thuận lợi về tiếp cận vốn, tín dụng, tài chính, thuế, thương mại, thanh toán điện tử với doanh nghiệp. Tiếp đó, để hỗ trợ giảm chi phí và áp lực tài chính ngắn hạn cho doanh nghiệp, hộ kinh doanh, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ liên tiếp ban hành nhiều giải pháp, chính sách như: Nghị định số 41/2020/NĐ-CP ngày 08 tháng 4 năm 2020 của Chính phủ về gia hạn thời hạn nộp thuế và tiền thuê đất, Nghị quyết số 42/NQ-CP ngày 09 tháng 4 năm 2020 của Chính phủ về các biện pháp hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch Covid-19, Nghị quyết số 84/NQ-CP ngày 29 tháng 5 năm 2020 của Chính phủ về các nhiệm vụ, giải pháp tiếp tục tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công và bảo đảm trật tự an toàn xã hội trong bối cảnh đại dịch Covid-19, Quyết định số 22/2020/QĐ-TTg ngày 10 tháng 8 năm 2020 của Thủ tướng Chính phủ về việc giảm tiền thuê đất của năm 2020 đối với các đối tượng bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 theo Nghị quyết số 84/NQ-CP ngày 29 tháng 5 năm 2020 của Chính phủ. Các chính sách này tương đối toàn diện, có mục đích cụ thể, đúng đối tượng và bước đầu đã đạt được kết quả.

 (2) Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 116/2020/QH14 ngày 16 tháng  9 năm 2020 về việc giảm thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp của năm 2020 đối với doanh nghiệp, hợp tác xã, đơn vị sự nghiệp và tổ chức khác; từ ngày 03 tháng 8 năm 2020 nhiều đối tượng sẽ được giảm tới 30% thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp năm 2020. Theo Nghị quyết số 116/2020/QH14, việc giảm thuế thu nhập doanh nghiệp chỉ áp dụng cho thu nhập phát sinh năm 2020 của các doanh nghiệp có tổng doanh thu năm không quá 200 tỷ đồng. Đây được xem là đối tượng dễ bị tổn thương trước tác động tiêu cực của nền kinh tế cần được hỗ trợ theo đúng quy định của Nghị quyết. Trong trường hợp doanh nghiệp mới thành lập trong năm 2020 (kỳ tính thuế năm 2020 không đủ 12 tháng) thì cần quy định phân bổ doanh thu theo thời gian thực tế doanh nghiệp hoạt động trong năm 2020.

Hiện nay, hiệu quả của các chính sách giảm thuế, miễn thuế, gia hạn thuế bị hạn chế do tác động mạnh của dịch khiến doanh thu sụt giảm nghiêm trọng. Nhiều doanh nghiệp không còn doanh thu hoặc quy mô doanh thu không đủ để được hưởng hỗ trợ từ các chính sách trên. Ngoài ra, trong thực hiện các chính sách cũng phát sinh những bất cập, trong đó có bất cập như cử tri phản ánh.

Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, hiện nay, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang tiếp tục phối hợp với các cơ quan liên quan nghiên cứu đề xuất biện pháp, chính sách kịp thời, hiệu quả để hỗ trợ người dân, doanh nghiệp và các cơ sở sản xuất kinh doanh trong tình hình Covid-19 tiếp tục diễn biến phức tạp.

2. Nội dung kiến nghị (số 32 tại văn bản số 6531/VPCP-QHĐP): Cử tri đề nghị Chính phủ tiếp tục quan tâm đối với việc phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long, góp phần đẩy mạnh sự phát triển kinh tế - xã hội, thu hút đầu tư cho các tỉnh ở khu vực này. Bên cạnh đó, cử tri cũng kiến nghị Chính phủ nhanh chóng thực hiện đồng bộ các giải pháp cụ thể trước tình trạng khu vực đồng bằng sông Cửu Long đang đối mặt với các vấn đề hạn hán, sạt lở bờ sông, bờ biển, sụt lún đất ngày càng nghiêm trọng.

Trả lời:

(1) Trước tác động của biến đổi khi hậu ảnh hưởng nghiêm trọng đến phát triển kinh tế - xã hội của vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 120/NQ-CP ngày 17 tháng 11 năm 2018 về phát triển bền vững ĐBSCL; Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 417/QĐ-TTg ngày 13 tháng 4 năm 2019 phê duyệt Chương trình hành động tổng thể thực hiện Nghị quyết số 120/NQ-CP.

Chương trình hành động tổng thể tại Quyết định số 417/QĐ-TTg đề ra 6 nhóm nhiệm vụ và giải pháp cụ thể chính, bao gồm: (1) Rà soát, hoàn thiện và bổ sung hệ thống cơ chế, chính sách; (2) Cập nhật và hệ thống hóa số liệu, dữ liệu liên ngành, tăng cường điều tra cơ bản; (3) Xây dựng quy hoạch và tổ chức không gian lãnh thổ; (4) Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý thích ứng với biến đổi khí hậu; (5) Đầu tư và phát triển hạ tầng; (6) Phát triển và huy động nguồn lực. Chương trình được phân kỳ thực hiện theo các giai đoạn: Giai đoạn đến năm 2020, giai đoạn 2021 - 2030, định hướng giai đoạn 2031 - 2050 và đến năm 2100. Trước mắt, trọng tâm của giai đoạn đến năm 2020 là thực hiện những nhiệm vụ cấp bách đã nêu trong Nghị quyết số 120/NQ-CP. Trong đó, ưu tiên giải quyết vấn đề sạt lở bờ biển, bờ sông, rạch và sụt lún đất trong Vùng đang diễn ra rất nhanh và ngày càng trầm trọng; triển khai quy hoạch, thiết kế các dự án cần đầu tư quy mô lớn ở giai đoạn tiếp theo nhằm triển khai mô hình kinh tế - xã hội của vùng một cách bền vững và chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu.

Về nguồn lực đầu tư phát triển, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 73/NQ-CP ngày 26 tháng 8 năm 2016 phê duyệt chủ trương đầu tư các chương trình mục tiêu giai đoạn 2016-2020, trong đó có các chương trình có mục tiêu hướng tới phát triển bền vững ĐBSCL: (i) Chương trình mục tiêu phát triển lâm nghiệp bền vững với mục tiêu nâng cao năng suất, chất lượng và phát huy giá trị của từng loại rừng, tăng giá trị rừng sản xuất trên đơn vị diện tích; góp phần đáp ứng các yêu cầu về giảm nhẹ thiên tai, bảo vệ môi trường sinh thái, ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu và nước biển dâng; nâng độ che phủ rừng lên 42%; (ii) Chương trình mục tiêu tái cơ cấu kinh tế nông nghiệp và phòng chống giảm nhẹ thiên tai, ổn định đời sống dân cư với mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 là củng cố, tu bổ khoảng 650km đê biển; chủ động phòng chống và hạn chế thiệt hại do thiên tai gây ra; (iii) Chương trình mục tiêu ứng phó với biến đổi khí hậu và tăng trưởng xanh[1].

Theo số liệu của Bộ Tài nguyên và Môi trường tại văn bản số 5035/BTNMT-PC ngày 14 tháng 9 năm 2020, từ năm 2011 đến nay, ngân sách trung ương đã hỗ trợ các địa phương vùng ĐBSCL xử lý khoảng 37 km bờ biển bị sạt lở, trong đó riêng tại Cà Mau đã xử lý 23,8 km với tổng kinh phí 652 tỷ đồng. Về cơ bản, các công trình đã phát huy hiệu quả giảm sóng, gây bồi. Tuy nhiên, do nguồn lực còn hạn chế, đầu tư chưa đồng bộ, căn cơ, một số công trình hiệu quả đầu tư thấp hoặc hư hỏng trong quá trình sử dụng như: Công trình bảo vệ bờ biển Ba Tri - Bến Tre (nguồn vốn WB4), công trình chống xói lở bờ biển Hiệp Thạch - Trà Vinh (nguồn vốn củng cố nâng cấp đê biển), kè Gành Hào (nguồn vốn SP-RCC), công trình giảm sóng bằng túi geotube ở bờ biển Nhà Mát - Bạc Liêu, trồng cây ngập mặn ở Nhà Mát - Bạc Liêu và Vĩnh Châu - Sóc Trăng (nguồn vốn ngân sách địa phương và tổ chức GIZ). Tình hình sạt lở vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống người dân, đe dọa an toàn của hệ thống đê biển và công trình cơ sở hạ tầng.

(2) Các giải pháp cụ thể đang được triển khai trước tình trạng khu vực ĐBSCL đang đối mặt với các vấn đề hạn hán, sạt lở bờ sông, bờ biển, sụt lún đất ngày càng nghiêm trọng

(i) Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: đã phối hợp với các bộ, ngành và địa phương liên quan tổ chức thực hiện Nghị quyết số 120/NQ-CP theo định hướng phát triển nông nghiệp ĐBSCL “thịnh vượng, an toàn, bền vững”; trong đó tập trung các nội dung sau:

- Cơ cấu lại nông nghiệp ĐBSCL gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và xây dựng nông thôn mới, nhằm tạo đột phá trong phát triển nông nghiệp hiện đại, bền vững, nâng cao giá trị gia tăng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh, thích ứng với biến đổi khí hậu. Chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương xử lý các yếu tố nội tại, cùng với sử dụng hiệu quả tài nguyên, nguồn nhân lực, khoa học công nghệ, biến nguy cơ thành thời cơ. Phát triển bền vững ĐBSCL theo 3 vùng (vùng thượng, vùng giữa và vùng ven biển) và xoay trục chiến lược sang thủy sản - trái cây - lúa gạo.

- Nâng cao trình độ nghiên cứu, chọn tạo giống, ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến, đặc biệt là 3 đối tượng chính đó là lúa gạo, cây ăn trái và thủy sản (cá tra, tôm nước lợ); phấn đấu đến năm 2025, xác định được bộ giống tốt nhất cho 3 ngành hàng chủ lực này; đến năm 2030, làm chủ nguồn giống trong nước có chất lượng, năng suất, hiệu quả thích ứng với biến đổi khí hậu.

- Chủ động phối hợp, hỗ trợ các địa phương xử lý khắc phục các sạt lở các khu vực sạt lở nguy hiểm, cấp bách ảnh hưởng trực tiếp đến khu tập trung dân cư, cơ sở hạ tầng quan trọng và suy thoái nghiêm trọng đất, rừng ngập mặn.

- Phối hợp với các địa phương triển khai các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ: số 324/QĐ-TTg ngày 02 tháng 3 năm 2020 về Chương trình tổng thể phát triển nông nghiệp bền vững thích ứng với biến đổi khí hậu vùng ĐBSCL đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; số 633/QĐ-TTg ngày 12 tháng 5 năm 2020 về đề án Hiện đại hóa hệ thống thủy lợi phục vụ chuyển đổi, phát triển nông nghiệp bền vững tại các tiểu vùng sinh thái vùng ĐBSCL; số 957/QĐ-TTg ngày 06 tháng 7 năm 2020 về đề án phòng chống sạt lở bờ sông, bờ biển đến năm 2030; số 825/QĐ-TTg ngày 12 tháng 6 năm 2020 về thành lập Hội đồng điều phối vùng ĐBSCL.

- Tiếp tục thực hiện các giải pháp căn cơ, đồng bộ để giảm thiểu thiệt hại, ổn định đời sống của nhân dân theo chỉ đạo của Ban Bí thư, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ: Chỉ thị số 42-CT/TW ngày 24 tháng 3 năm 2020 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai; Nghị quyết số 76/NQ-CP ngày 18 tháng 6 năm 2018 của Chính phủ về công tác phòng, chống thiên tai; Quyết định số 172/2007/QĐ-TTg ngày 16 tháng 11 năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện Chiến lược quốc gia phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai đến năm 2020.

- Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, tổng hợp nhu cầu, ưu tiên bố trí vốn đầu tư trong kế hoạch trung hạn 2021-2025, đặc biệt là các dự án hạ tầng thủy lợi, phòng, chống sạt lở bờ sông, bờ biển... phục vụ sản xuất, ổn định đời sống của nhân dân; dự án có quy mô liên tỉnh, liên vùng, có tính lan tỏa. Ưu tiên nguồn lực cho nguyên cứu, chọn giống nông lâm thủy sản chủ lực (thủy sản, cây ăn trái và lúa gạo) thích ứng với biến đổi khí hậu.

(ii) Bộ Tài nguyên và Môi trường:

Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Tài nguyên và Môi trường xây dựng, trình các cơ quan có thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật như Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo; các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo, trong đó quy định nhiều biện pháp tổng thể để phòng chống, giảm thiểu hiện tượng sạt lở bờ biển như: triển khai nhiệm vụ lập Quy hoạch không gian biển quốc gia, Quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ; đôn đốc, hướng dẫn các địa phương thiết lập hành lang bảo vệ bờ biển, lập và thực hiện Chương trình quản lý tổng hợp tài nguyên vùng bờ.

Ngoài ra, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành một số văn bản như: Nghị quyết số 26/NQ-CP ngày 05 tháng 3 năm 2020 của Chính phủ ban hành Kế hoạch tổng thể và kế hoạch 5 năm thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22 tháng 10 năm 2018 của Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, trong đó có một số nội dung, giải pháp góp phần hạn chế, khắc phục tình trạng sạt lở bờ biển. Quyết định số 28/QĐ-TTg ngày 07 tháng 01 năm 2020 phê duyệt Chương trình trọng điểm điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển và hải đảo đến năm 2030, trong đó có nhiều nhiệm vụ liên quan đến công tác điều tra, dự báo phục vụ phòng chống, giảm thiểu hiện tượng sạt lở bờ biển.

Trước tình trạng khu vực ĐBSCL đang đối mặt với các vấn đề hạn hán, sạt lở bờ sông, bờ biển, sụt lún đất ngày càng nghiêm trọng, về phía Bộ Tài nguyên và Môi trường đã có các giải pháp như sau:

- Các giải pháp trước mắt:

+ Theo dõi sát diễn biến thời tiết; tăng cường nhận định, dự báo sớm về tình hình khí tượng thuỷ văn, dòng chảy, triều, xâm nhập mặn, cung cấp thông tin kịp thời để các địa phương chủ động chỉ đạo thực hiện các biện pháp phòng, chống.

+ Theo dõi chặt chẽ tình hình xả nước của các hồ chứa thuỷ điện trên dòng chính sông Mê Công từ phía Trung Quốc và các hồ chứa trên các dòng nhánh để có giải pháp xử lý kịp thời bổ sung nguồn nước đẩy mặn nhằm hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng thiếu nước ngoạt; tìm kiếm, khai thác nguồn nước dưới đất để kịp thời cấp nước sinh hoạt cho nhân dân các vùng bị thiếu nước sinh hoạt nghiêm trọng...

+ Tuyên truyền rộng rãi, hướng dẫn người dân thực hiện các biện pháp sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả, nhất là trong tưới tiêu, chống lãng phí nguồn nước.

- Các giải pháp dài hạn:

+ Tăng cường năng lực dự báo, cảnh báo. Xây dựng hệ thống giám sát, dự báo sớm diễn biến tài nguyên nước vùng ĐBSCL, bao gồm cả phần thượng nguồn, toàn lưu vực và sụt lún, sạt lở bờ sông, bờ biển.

+ Chủ động rà soát, điều chỉnh bổ sung quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội, các quy hoạch ngành, lĩnh vực, đặc biệt là quy hoạch thuỷ lợi, nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản trên cơ sở khả năng thực tế của nguồn nước và những dự báo về biến động nguồn nước, xâm nhập mặn do tác động của biến đổi khí hậu, nước biển dâng theo các kịch bản đã được công bố.

+ Nghiên cứu đề xuất các phương án tăng cường khả năng trữ lũ, giữ nước ngọt với quy mô phù hợp với ĐBSCL nhằm tăng cường trữ nước, điều tiết nguồn nước.

+ Xây dựng và triển khai thực hiện quy hoạch tài nguyên nước vùng ĐBSCL trong điều kiện biến đổi khí hậu và tác động do các hoạt động khai thác, sử dụng nước của các quốc gia ở thượng nguồn sông Mê Công.

+ Tập trung điều tra, tìm kiếm nguồn nước dưới dất, nhất là các tầng chứa nước nằm sâu để phục vụ cấp nước sinh hoạt ở các vùng thường xuyên bị xâm nhập mặn; xây dựng các công trình khai thác nước ngầm để kết hợp dự phòng sẵn sàng ứng phó với xâm nhập mặn khi cần thiết.

+ Tăng cường chia sẻ thông tin, dữ liệu toàn vùng; xây dựng cơ sở dữ liệu tích hợp dùng chung cho cả vùng về khí tượng, thuỷ văn, tài nguyên nước, đất đai và cơ chế chia sẻ thông tin, dữ liệu giữa trung ương và địa phương, các ngành.

+ Đàm phán, thuyết phục, đấu tranh để các quốc gia có các hồ chứa thuỷ điện lớn, kể cả ở dòng chính và dòng nhánh, cùng hợp tác trong việc vận hành phát điện, xả nước xuống hạ du, bảo đảm duy trì dòng chảy tối thiểu trên sông ở mức phù hợp, ít nhất cũng bằng mức trung bình như chúng ta đã và đang làm như vậy khi vận hành các hồ trên lưu vực sông Sê San, Srêpok để bảo đảm nguồn nước cho Campuchia.

(iii) Bộ Kế hoạch và Đầu tư:

Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Nhiệm vụ lập quy hoạch vùng ĐBSCL thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 tại Quyết định số 116/QĐ-TTg ngày 31 tháng 7 năm 2020.

Trên cơ sở nhiệm vụ lập quy hoạch được phê duyệt, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang phối hợp với các bộ, ngành và các địa phương liên quan để lập quy hoạch vùng ĐBSCL (dự kiến trình Thủ tướng phê duyệt trong quý 4 năm 2020). Đồng thời, thực hiện Chỉ thị số 30/CT-TTg ngày 27 tháng 7 năm 2020 về các nhiệm vụ, giải pháp triển khai lập đồng thời các quy hoạch thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang phối hợp với các bộ, ngành và địa phương xây dựng Khung định hướng phát triển vùng ĐBSCL thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Các tài liệu trên sẽ là khung pháp lý quan trọng trong công tác chỉ đạo điều hành, đảm bảo tính thống nhất trong quá trình triển khai thực hiện và xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế xã hội các địa phương trong vùng ĐBSCL.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ tiếp tục phối hợp các bộ, ngành, địa phương trong Vùng triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp khắc phục tình trạng sạt lở, suy thoái rừng ngập mặn. Trước mắt, tiếp tục quan trắc, giám sát sạt lở, kịp thời cảnh báo và tổ chức di dời dân cư bảo đảm an toàn; hỗ trợ kịp thời và tái định cư, bảo đảm ổn định đời sống người dân; khắc phục khẩn cấp các khu vực sạt lở nguy hiểm đe dọa trực tiếp đến khu dân cư tập trung, công trình hạ tầng thiết yếu không thể di dời, quản lý chặt chẽ việc xây dựng công trình, nhà cửa ven sông; siết chặt việc quy hoạch, cấp phép, khai thác cát sỏi trên sông, vên biển, xử lý nghiêm các sai phạm trong hoạt động khai thác cát sỏi, nhất là khai thác trái phép, sai phép, thu hồi các giấy phép đã cấp nhưng gây sạt lở trong quá trình khai thác; đẩy mạnh đầu tư khôi phục rừng ngập mặn ven biển.

Xây dựng quy hoạch chỉnh trị sông, phòng chống sạt lở bờ biển, đề án tổng thể phòng chống sạt lở bờ sông, bờ biển, trên cơ sở đó sắp xếp ưu tiên, phân kỳ đầu tư, xây dựng kế hoạch đầu tư trung hạn, dài hạn để huy động các nguồn lực triển khai thực hiện.

Tăng cường hợp tác quốc tế nghiên cứu các giải pháp phòng chống sạt lở bờ biển, khôi phục rừng ngập mặn; đồng thời phối hợp với các nước trong thượng nguồn sông Mê Công theo tinh thần hợp tác khai thác, sử dụng hài hòa, hiệu quả, bền vững tài nguyên nước, các bên cùng có lợi, bảo đảm lợi ích quốc gia, theo đúng thông lệ quốc tế đối với dòng sông xuyên quốc gia.

3. Nội dung kiến nghị (số 33 tại văn bản số 6531/VPCP-QHĐP): Cử tri đề xuất Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố rà soát đánh giá tổng thể các dự án đầu tư của nước ngoài, nhất là dự án liên quan đến Trung Quốc tại khu vực biên giới, biển, đảo có vị trí chiến lược về quốc phòng, an ninh.

Trả lời:

Phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo an ninh, quốc phòng là quan điểm, định hướng, chỉ đạo xuyên suốt của Đảng và Nhà nước trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Không nằm ngoài chủ trương nêu trên, quá trình xây dựng cơ chế, chính sách, định hướng phát triển, lập và triển khai quy hoạch, quản lý và thu hút đầu tư, quản lý hoạt động doanh nghiệp, hợp tác quốc tế luôn được triển khai thực hiện trên tinh thần thận trọng, đảm bảo lợi ích quốc gia.

Thời gian vừa qua, có hiện tượng một số nhà đầu tư nước ngoài lợi dụng sự thông thoáng của pháp luật đầu tư, quy định về góp vốn, mua cổ phần, một số nhà đầu tư nước ngoài đã thông qua một số cá nhân Việt Nam để thành lập doanh nghiệp hoặc mua lại phần vốn góp của bên Việt Nam tại các dự án có vị trí đất “nhạy cảm”, ảnh hưởng dến an ninh quốc phòng. Về vấn đề này, ngày 18 tháng 4 năm 2017, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã có công văn mật số 219/BKHĐT-ĐTNN báo cáo Thủ tướng Chính phủ về tình hình nhà đầu tư nước ngoài lợi dụng việc “núp bóng” người Việt Nam để đầu tư, kinh doanh.

Trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động, để đảm bảo thu hút đầu tư bền vững, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 50-NQ/TW ngày 20 tháng 8 năm 2019 về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030. Nghị quyết đã chỉ rõ các giải pháp nhằm tăng cường công tác bảo đảm quốc phòng - an ninh trong hoạt động đầu tư nước ngoài như sau: (i) Nghiên cứu, xây dựng các quy định khắc phục tình trạng “vốn mỏng”, chuyển giá, đầu tư “chui”, đầu tư “núp bóng”. Nghiên cứu bổ sung quy định “điều kiện về quốc phòng, an ninh” trong quá trình xem xét, cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư đối với dự án đầu tư mới và quá trình xem xét, chấp thuận đối với hoạt động đầu tư thông qua hình thức góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp; (ii) Rà soát, hoàn thiện các quy định về bảo đảm quốc phòng, an ninh khi nhà đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp đầu tư nước ngoài góp vốn, mua cổ phần, sáp nhập, mua lại doanh nghiệp tại Việt Nam; (iii) Xây dựng tiêu chí đánh giá hiệu quả đầu tư nước ngoài về kinh tế, xã hội, môi trường và quốc phòng, an ninh…

Các yêu cầu tại Nghị quyết số 50-NQ/TW đã được thể chế hóa vào trong Luật Đầu tư số 61/2020/QH14 được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XIV (tháng 6 năm 2020) vừa qua; trong đó, Luật Đầu tư số 61/2020/QH14 bổ sung các quy định pháp luật để thắt chặt hơn công tác tiếp nhận, thẩm định, quản lý, dừng các dự án có nguy cơ ảnh hưởng đến quốc phòng, an ninh.

Tại Nghị quyết số 58/NQ-CP ngày 27 tháng 4 năm 2020 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động thực hiện nghị quyết 50-NQ/TW, Bộ Kế hoạch và Đầu tư được giao nhiệm vụ xây dựng Báo cáo trình Thủ tướng Chính phủ về việc xây dựng các quy định khắc phục tình trạng “vốn mỏng”, đầu tư “chui”, đầu tư “núp bóng”.

Bên cạnh đó, trong thời gian qua, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã phối hợp với các bộ, ngành và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tăng cường kiểm tra, giám sát đối với các dự án đầu tư nước ngoài; có các văn bản gửi Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đề nghị trong quá trình thu hút, tiếp nhận, thẩm định và quản lý các dự án đầu tư nước ngoài, đặc biệt lưu ý các vấn đề sau:

- Không thu hút và tiếp nhận các dự án tiềm ẩn ô nhiễm môi trường, các dự án sử dụng công nghệ lạc hậu, đã qua sử dụng.

- Thẩm tra kỹ các dự án có dấu hiệu đầu tư “núp bóng”, thực hiện đẩy đủ các quy định của pháp luật về quốc phòng an ninh, trong quá trình giải quyết các thủ tục về đầu tư, doanh nghiệp, đất đai… cho các dự án đầu tư nước ngoài. Tăng cường kiểm tra, giám sát, đánh giá tình hình hoạt động các dự án trên địa bàn tỉnh để phát hiện các dự án có dấu hiệu “núp bóng” đầu tư và đề xuất các giải pháp thích hợp.

- Kiên quyết chấm dứt hoạt động và thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư đối với các dự án không triển khai, chậm triển khai và không thực hiện đúng cam kết.

- Kịp thời báo các với các cơ quan có thẩm quyền và Bộ Kế hoạch và Đầu tư các vướng mắc phát sinh để có biện pháp xử lý theo quy định của pháp luật.

4. Nội dung kiến nghị (số 34 tại văn bản số 6531/VPCP-QHĐP): Cử tri kiến nghị đẩy mạnh thực hiện các nội dung về chính sách đặc thù của Thành phố, tiến đến xây dựng mô hình chính quyền đô thị, cải cách thể chế mạnh mẽ, để Thành phố Hồ Chí Minh xứng đáng là đầu tàu giúp cả nước khôi phục mạnh mẽ sau đại dịch và trong tương lai sắp tới Nghị quyết về một số cơ chế, chính sách đặc thù đối với một số tỉnh, thành được áp dụng từ thực tiễn Nghị quyết chính sách đặc thù cho Thành phố Hồ Chí Minh, chính sách đó giúp thành phố chủ động, đạt nhiều thành tựu.

Trả lời:                         

Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 54/2017/QH14 ngày 24 tháng 11 năm 2017 về thí điểm cơ chế, chính sách đặc thù phát triển Thành phố Hồ Chí Minh, trong đó, có một số nội dung tạo nguồn thu cho Thành phố như (i) Thí điểm tăng mức thuế hoặc thuế suất đối với một số hàng hóa chịu thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế bảo vệ môi trường, mức tăng không quá 25% so với mức thuế hoặc thuế suất hiện hành; (ii) Quyết định áp dụng trên địa bàn phí, lệ phí chưa được quy định trong Danh mục phí, lệ phí ban hành kèm theo Luật Phí và lệ phí (iii) Tăng mức hoặc tỷ lệ thu phí, lệ phí đã được cấp có thẩm quyền quyết định đối với các loại phí, lệ phí được quy định trong Danh mục phí, lệ phí ban hành kèm theo Luật Phí và lệ phí; (iv) Được hưởng 50% khoản thu tiền sử dụng đất khi bán tài sản công gắn liền trên đất theo quy định của Luật Quản lý, sử dụng tài sản công; (v) Được hưởng số thu từ cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước do Ủy ban nhân dân Thành phố quản lý và số thu từ thoái vốn nhà nước tại các tổ chức kinh tế do Ủy ban nhân dân Thành phố làm đại diện chủ sở hữu. Đề nghị Thành phố tích cực triển khai các nội dung trên để tạo nguồn lực phát triển Thành phố mạnh mẽ hơn nữa.

5. Nội dung kiến nghị (số 36 tại văn bản số 6531/VPCP-QHĐP): Đối với quy định liên quan đến dự án hợp tác xây dựng – chuyển giao (BT), cử tri Thành phố kiến nghị:

- Đề nghị nghiên cứu, xem xét trình Quốc hội bỏ khoản 3 Điều 45 của Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư quy định về loại “Hợp đồng xây dựng - Chuyển giao (BT)”; việc điều chỉnh “Hợp đồng xây dựng - Chuyển giao (BT)” thực hiện theo quy định của Luật Quản lý sử dụng tài sản công, Luật Đấu thầu, Luật Đất đai.

- Đề nghị Chính phủ và Quốc hội tiếp tục nghiên cứu xem xét sửa đổi, bổ sung đồng bộ Luật Quản lý sử dụng tài sản công, Luật Đấu thầu, Luật Đất đai, Luật Đấu giá tài sản để hoàn thiện khung pháp luật điều chỉnh loại hình các dự án theo hình thức hợp đồng BT.

- Đề nghị bổ sung quy định đấu thầu Dự án BT và đồng thời đấu thầu hoặc đấu giá quỹ đất thanh toán Dự án BT để lựa chọn đồng thời nhà đầu tư dự án BT và nhà đầu tư dự án khác.

- Đề nghị sửa đổi, bổ sung Luật Đấu thầu, Luật Đấu giá tài sản để quy định trường hợp đấu thầu (kết hợp cả đấu giá), đồng thời Dự án BT và quỹ đất thanh toán Dự án BT.

- Đề nghị Chính phủ và Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét quy định thí điểm việc thực hiện đấu thầu (kết hợp cả đấu giá) đồng thời Dự án BT và “quỹ đất” thanh toán dự án BT.

- Do Nghị định 63/2014/NĐ-CP đã quy định số tiền thu được từ khai thác quỹ đất được dùng để thanh toán Dự án BT, đề nghị bổ sung "Dự án BT" vào Khoản (1.b) Điều 6 Luật Đầu tư công 2014 “b. Dự án không có cấu phần xây dựng là dự án mua tài sản, nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, cấp trang thiết bị, máy móc, dự án BT và các dự án khác không quy định tại điểm a khoản này”, và đề nghị bổ sung thêm các quy định về sử dụng "tiền thuộc ngân sách nhà nước" để thanh toán Dự án BT vào Luật Đầu tư công để thống nhất thực hiện.

- Kiến nghị cần phải đảm bảo tính thống nhất giữa quy định khai thác quỹ đất để tạo vốn phát triển kết cấu hạ tầng bằng phương thức đấu giá quyền sử dụng đất (theo Luật Đất đai) và quy định sử dụng "quỹ đất" để thanh toán Dự án BT (theo Luật Quản lý, sử dụng tài sản công).

- Đề nghị thực hiện phổ biến việc bán đấu giá quỹ đất công đã giải phóng mặt bằng, trụ sở làm việc, để tạo nguồn tiền thuộc ngân sách nhà nước để thanh toán Hợp đồng BT.

- Đề nghị việc sử dụng tiền thuộc ngân sách nhà nước để thanh toán Hợp đồng BT, được thực hiện theo quy định về mua tài sản công theo khoản 1, Điều 6 Luật Đầu tư công, và bổ sung thủ tục, cơ chế phù hợp với Dự án BT.

- Đề nghị hạn chế tối đa việc sử dụng quỹ đất đã giải phóng mặt bằng, trụ sở làm việc để thanh toán Hợp đồng BT và chỉ thực hiện phương thức thanh toán này, khi đã được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận, đúng như quy định tại điểm, khoản 1, Điều 5 Nghị định 69/2012/NĐ-CP. Chỉ nên sử dụng quỹ đất chưa giải phóng mặt bằng để thanh toán Hợp đồng BT trong trường hợp nhà đầu tư ứng trước tiền giải phóng mặt bằng cho Nhà nước, như đã quy định tại Điều 8 Nghị định 69/2012/NĐ-CP.

- Kiến nghị cần phải đảm bảo nguyên tắc ngang giá khi Nhà nước sử dụng quỹ đất để thanh toán Dự án BT. Số tiền do nhà đầu tư ứng trước để giải phóng mặt bằng công trình thuộc Dự án BT được tính vào giá trị của Hợp đồng BT và được tính lãi suất. Đối với số tiền do nhà đầu tư ứng trước để giải phóng mặt bằng quỹ đất thanh toán Dự án BT để thực hiện dự án khác, được khấu trừ vào giá trị quỹ đất thanh toán Dự án BT và không được tính lãi suất trong thời gian thực hiện Dự án BT; nhưng được tính lãi suất kể từ sau thời điểm thanh toán Dự án BT.

- Đề nghị sửa đổi, bổ sung các phương pháp xác định giá đất để xác định "giá đất cụ thể" của Nghị định 44/2013/NĐ-CP để đảm bảo nguyên tắc giá đất phù hợp giá thị trường.

- Trong trường hợp sử dụng quỹ đất chưa giải phóng mặt bằng để thanh toán Dự án BT, đề nghị vẫn thực hiện đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư Dự án BT với điều kiện kèm theo là nhà đầu tư ứng vốn cho Nhà nước để giải phóng mặt bằng quỹ đất thanh toán Dự án BT. 

Trả lời:

- Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư số 64/2020/QH14 ngày 18 tháng 6 năm 2020 được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIV. Trong đó, tại khoản 5 Điều 101 của Luật này đã quy định:

5. Kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành, việc chuyển tiếp thực hiện dự án áp dụng loại hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao (BT) được thực hiện như sau:

a) Dự án chưa phát hành hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu thì dừng thực hiện; trường hợp đã phát hành hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu thì tiếp tục thực hiện căn cứ vào hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu và quy định của pháp luật tại thời điểm phát hành hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu;

b) Dự án đã có kết quả lựa chọn nhà đầu tư trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành thì cơ quan ký kết hợp đồng có trách nhiệm tổ chức đàm phán, ký kết hợp đồng căn cứ vào kết quả lựa chọn nhà đầu tư, hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất, hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu và quy định của pháp luật tại thời điểm phát hành hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu;

c) Dự án đã ký kết hợp đồng trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành thì tiếp tục thực hiện việc triển khai thực hiện dự án, thanh toán theo quy định của hợp đồng BT đã ký kết và quy định của pháp luật tại thời điểm ký kết hợp đồng;

d) Dừng triển khai dự án mới áp dụng loại hợp đồng BT”

Theo quy định của Luật, dự án mới áp dụng loại hợp đồng BT sẽ dừng triển khai tại thời điểm Luật có hiệu lực thi hành (từ ngày 01 tháng 01 năm 2021). Dự án áp dụng loại hợp đồng BT chưa được phê duyệt chủ trương đầu tư thì dừng thực hiện từ ngày 15 tháng 8 năm 2020. Đây là định hướng lớn đã được Quốc hội, Chính phủ xem xét, thảo luận kỹ lưỡng trong quá trình xây dựng Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư .

Đối với một số kiến nghị về việc điều chỉnh cơ chế thực hiện dự án BT của cử tri Thành phố Hồ Chí Minh, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ phối hợp với Bộ Tài chính và các cơ quan liên quan nghiên cứu cụ thể khi có chỉ đạo định hướng tiếp tục thực hiện loại dự án này trong thời gian tới.

Đối với các kiến nghị khác như kiến nghị: “bổ sung "Dự án BT" vào Khoản (1.b) Điều 6 Luật Đầu tư công 2014..., và bổ sung thêm các quy định về sử dụng "tiền thuộc ngân sách nhà nước" để thanh toán Dự án BT vào Luật Đầu tư công để thống nhất thực hiện;Đề nghị việc sử dụng tiền thuộc ngân sách nhà nước để thanh toán Hợp đồng BT, được thực hiện theo quy định về mua tài sản công theo khoản 1, Điều 6 Luật Đầu tư công, và bổ sung thủ tục, cơ chế phù hợp với Dự án BT.”: Hiện nay, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư số 64/2020/QH14 ngày 18 tháng 6 năm 2020 quy định dừng triển khai các dự án mới áp dụng loại hợp đồng BT, không quy định việc sử dụng tiền để thanh toán cho dự án BT chuyển tiếp; ngoài ra, khoản 2 Điều 28 Luật Đầu tư công năm 2019 đã quy định: “Nguyên tắc, thẩm quyền, trình tự, thủ tục quyết định chủ trương đầu tư dự án đầu tư theo phương thức đối tác công tư thực hiện theo quy định của pháp luật về đầu tư theo phương thức đối tác công tư”. Do đó, đề nghị thực hiện theo quy định của pháp luật về đầu tư theo phương thức PPP.

6. Nội dung kiến nghị (số 39 tại văn bản số 6531/VPCP-QHĐP): Cử tri kiến nghị nghiên cứu trình Quốc hội cần phải ban hành một Nghị quyết chi tiết cụ thể về phát triển kinh tế bền vững gắn với bảo vệ môi trường thiên nhiên. Bên cạnh đó, cử tri cũng kiến nghị để góp phần nâng cao chất lượng sống, Nghị quyết cần yêu cầu Chính phủ và chính quyền các cấp cần có những giải pháp đột phá để xây dựng, phát triển công viên và tạo lập mảng xanh đô thị…

Trả lời:

Phát triển bền vững là một quan điểm xuyên suốt trong các chính sách của Đảng, Nhà nước, Quốc hội và Chính phủ. Để thực hiện phát triển bền vững và thực hiện nhiệm vụ do Quốc hội giao, Chính phủ đã xây dựng và ban hành Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững (Quyết định số 622/QĐ-TTg ngày 10 tháng 5 năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ). Kế hoạch hành động đã xác định 17 mục tiêu phát triển bền vững với 115 mục tiêu cụ thể gắn với các nhiệm vụ cụ thể, xuyên suốt các nội dung kinh tế  - xã hội - môi trường. Các mục tiêu phát triển bền vững đề ra đảm bảo tính hài hòa giữa phát triển kinh tế bền vững gắn với đảm báo các vấn đề về an sinh xã hội và bảo vệ môi trường thiên nhiên.

Để thực hiện Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững, Chính phủ đã ban hành các văn bản quan trọng như: Chỉ thị số 13/CT-TTg ngày 20 tháng 5 năm 2019 của Thủ tướng Chính phủ về phát triển bền vững; Quyết định số 681/QĐ-TTg ngày 04 tháng 6 năm 2019 của Thủ tướng Chính phủ về Lộ trình thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững Việt Nam đến năm 2020 và sắp tới là Nghị quyết của Chính phủ về phát triển bền vững (hiện đã được lấy ý kiến Thành viên Chính phủ lần thứ 2). Bên cạnh đó, hiện đã có 17 Bộ và 50 địa phương ban hành Kế hoạch hành động thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững.

Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 và các văn bản, chính sách liên quan cùng với các chính sách hiện hành trên các ngành, lĩnh vực hiện nay đã có các nội dung về phát triển kinh tế bền vững gắn với bảo vệ môi trường thiên nhiên. Do vậy, Bộ Kế hoạch và Đầu tư kiến nghị chưa nên xây dựng riêng một nghị quyết của Quốc hội về vấn đề này.

7. Nội dung kiến nghị (số 40 tại văn bản số 6531/VPCP-QHĐP): Cử tri đồng tình về việc Quốc hội thông qua quy định cấm kinh doanh ngành nghề đòi nợ thuê. Thời gian qua vấn nạn đòi nợ thuê không chỉ làm ảnh hưởng cho chính người vay nợ mà còn ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự tại các địa phương và đặc biệt là lòng tin của người dân vào hệ thống tòa án dân sự và thi hành án dân sự. Kiến nghị cần phải tăng cường cải cách thủ tục hành chính để tạo cơ sở, hành lang pháp lý nhằm củng cố xây dựng niềm tin pháp luật trong nhân dân, thông qua đối thoại giải thích pháp luật dân sự cho người dân trong việc đòi nợ.

Trả lời:

Luật Đầu tư số 61/2020/QH14 đã được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XIV, ngày 17 tháng 6 năm 2020 và sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2021. Một trong những điểm mới của Luật Đầu tư 2020 là việc bổ sung “kinh doanh dịch vụ đòi nợ” vào ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh (Điều 6).

Trong thời gian qua, khung khổ pháp lý đã quy định các biện pháp để bảo vệ và giúp chủ nợ thu hồi khoản nợ và tiền lãi thông qua việc khởi kiện dân sự, tiến hành thu hồi đời nợ bằng con đường tố tụng bằng một bản án có hiệu lực của tòa án. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn có hiện tượng chủ nợ tìm đến các công ty kinh doanh dịch vụ đòi nợ thuê để giải quyết. Một trong những lý do tồn tại dịch vụ kinh doanh đòi nợ thuê là do để thực hiện đòi nợ theo con đường tố tụng này thì người cho vay phải chờ đợi thời gian khá dài. Tính trung bình khi giải quyết một vụ án dân sự khoản từ 4-6 tháng ở giai đoạn sơ thẩm, nếu có phúc thẩm sẽ lại kéo dài hơn. Đến được bước thi hành án và thi hành xong bản án, thu hồi nợ cho chủ nợ thì cũng là cả một khoảng thời gian nữa. Cách thức đòi nợ này cũng tốn kém chi phí nhưng chưa chắc về khả năng thu hồi được toàn bộ số tiền cho vay và tiền lãi. Do vậy, Do đó, để đảm bảo quyền lợi của người dân trong việc đòi nợ, củng cố xây dựng niềm tin vào pháp luật trong nhân dân đòi hỏi các cơ quản quản lý nhà nước phải tích cực cải cách thủ tục hành chính, đơn giản hóa quy trình tố tụng, thời gian giải quyết liên quan để các vụ án đòi nợ, góp phần giảm chi phí cho người dân trong quá trình đòi nợ theo quy định của pháp luật. Đồng thời, cần tuyên truyền, phổ biến rộng rãi các quy định của pháp luật mới nhất liên quan đến việc thu hồi nợ, đòi nợ để người dân được biết và không thực hiện trái với các quy định pháp luật hiện hành.

Khoản 5 Điều 77 Luật Đầu tư 2020 quy định: “Hợp đồng cung cấp dịch vụ đòi nợ ký kết trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành chấm dứt hiệu lực kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành; các bên tham gia hợp đồng được thực hiện các hoạt động để thanh lý hợp đồng cung cấp dịch vụ đòi nợ theo quy định của pháp luật về dân sự và quy định khác của pháp luật có liên quan”.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư hiện đang phối hợp với các bộ, ngành, địa phương phổ biến, hướng dẫn về nội dung này tại Luật Đầu tư 2020; đồng thời, xây dựng  Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư 2020, dự kiến sẽ quy định về điều khoản chuyển tiếp đối với nội dung về dịch vụ đòi nợ nhằm tránh tình trạng lợi dụng việc đòi nợ trá hình dưới các hình thức xã hội đen, bảo kê...

 


[1] Mục tiêu cụ thể phấn đấu đến năm 2020 hoàn thành 30 dự án chuyển tiếp; 42 dự án trồng rừng ngập mặn ven biển, phòng hộ đầu nguồn và một số dự án ưu tiêu cấp bách; trồng, phục hồi 10.000 ha rừng ngập mặn ven biển, rừng phòng hộ đầu nguồn nhằm thích ứng với biến đổi khí hậu, hấp thụ 02 triệu tấn khí CO2 mỗi năm và tạo sinh kế ổn định cho người dân; xây dựng 01 hệ thống giám sát biến đổi khí hậu, 01 hệ thống giám sát, dự báo xâm nhập mặn thuộc quy hoạch mạng lưới quan trắc tài nguyên và môi trường quốc gia giai đoạn 2016-2025, tầm nhìn đến năm 2030 theo Quyết định số 90/QĐ-TTg ngày 12/01/2016 của Thủ tướng Chính phủ; xây dựng, nâng cấp 200km đê, kè sông, biển xung yếu ở những khu vực có ảnh hưởng lớn và trực tiếp đến sản xuất, tính mạng và đời sống của trên 03 triệu người dân ở những khu vực ven sông, ven biển.

 


Đánh giá bài viết

lượt đánh giá: , trung bình:

Tin liên quan

Tin khác